CHÂN ĐĂNG và
không phải chân đăng
tại Nouvelle
Calédonie (Tân Thế giới cũ)
Jean Vanson sưu tầm
LỜI NÓI ĐẦU
Trong lúc lấn bấn buộc phải tự giam hãm giữa bốn bức tường nhằm phòng chống dịch Vi-rút các loại, JVJ lượn lờ trên mạng
và tình cờ tìm thấy một số thông tin cũ đăng tải trên một số báo chí liên quan đến
lực lượng nhân công người Việt Nam đầu tiên tại New Caledonia và New Hebrides
thế kỉ 19 và 20. Những thông tin dưới đây có thể nhiều người đã biết, nhưng cũng
có nhiều người chưa biết. Vậy nên xin mạn phép đăng tải lại để chia sẻ với quý
vị cùng xem cho vui thôi nhé...
Có hai vấn đề
cần chú ý:
1.
La main-d’oeuvre pénale annamite et tonkinoise en
Nouvelle Caledonie (Lực lượng nhân công là tội phạm người Bắc và
Trung kì đến NC từ năm 1891).
2.
La main-d’oeuvre légale tonkinoise en
Nouvelle-Caledonie. (Lực lương nhân công Bắc kì theo diện hợp pháp đến NC từ
năm 1923)
Căn cứ vào
các bài báo và tư liệu đăng tải phía dưới đây, chúng ta sẽ có thêm thông tin để bổ sung vào
việc tham khảo về nguồn gốc của cụm từ “chân đăng” ở New Caledonia như sau:
a.
Chúng ta đều đã biết rằng cụm từ “chân đăng” trước đến
nay không tìm thấy trong các bộ sách từ
điển. Nó đã được nhiều học giả ở NC dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp với chân là “pieds” và đăng là “liés”.
“pieds liés” đồng nghĩa với đôi chân bị trói buộc hoặc là “pieds engagés”. Có người còn dịch là “pieds dans l’étrier” tức chân sỏ vào bàn đạp của yên ngựa. Bởi vậy, từ trước đến nay, người ta vẫn quan niệm “chân đăng” có nghĩa là không có lối thoát, nên dân phu mộ tại NC tự đặt cho mình cái tên này.
“pieds liés” đồng nghĩa với đôi chân bị trói buộc hoặc là “pieds engagés”. Có người còn dịch là “pieds dans l’étrier” tức chân sỏ vào bàn đạp của yên ngựa. Bởi vậy, từ trước đến nay, người ta vẫn quan niệm “chân đăng” có nghĩa là không có lối thoát, nên dân phu mộ tại NC tự đặt cho mình cái tên này.
b.
Trên thực tế nếu dịch theo ngôn ngữ của từ điển online Việt
Hán Nôm thì chữ “chân” có nghĩa là một sự việc có thực, là chính
thức, là hợp pháp (vrai, légal, officiel). Chữ Hán 真实 = Thật thà,
chất phác. Chữ nôm 真 = chân
thực.
c.
Chữ “đăng” theo từ điển online Việt Hán Nôm có nghĩa
là ghi vào sổ sách, viết trên báo chí (enregistré, publié). Tóm lại “chân đăng”
là ghi tên chính thức vào một văn bản nào đó. (Enregistrement officiel). Và kí
kết hợp đồng chính thức đi lao động là signé un contrat de travail officiel. Chữ hán 登记 = đăng kí, Ghi chép. Chữ nôm 登= đăng tải.
d.
Theo nguồn tin dưới đây thì năm 1891, do thiếu hụt nhân công
trầm trọng nên Bộ máy thuộc địa của Pháp đã chính thức đưa 800 tù nhân ở Côn đảo
sang Tân Calédonie để làm việc khổ sai trong các sở mỏ. Như chúng ta đã biết là
trước đây họ cũng đã đưa rất nhiều tù nhân VN sang Guyane Nam mỹ, sang đảo Réunion,
sang đảo Marquises thuộc Polynesia và các nơi khác. Năm 1891 mới chỉ là chuyến
thử nghiệm đầu tiên, sau đó đã có nhiều chuyến tầu tiếp theo với hàng ngàn tù
nhân khác đên làm việc tại New Caledonia. Và họ gọi đó là nhân công tội phạm hoặc
phạm pháp (main-d’oeuvre pénale). Nếu có điều kiện, mời quý vị quá bộ đến Trung tâm
lưu trữ Quốc gia số 1 tại địa chỉ 5, Vũ Phạm Hàm Cầu giấy Hà nội. Quý vị có
thể truy tìm danh sách đầy đủ của những phạm nhân bị thuyên chuyển từ nhà tù Côn đảo (Poulo Condor) sang cấm cố tại
New Caledonia năm 1891 và những năm khác nữa.
e.
Đến năm 1919, phong trào bình dân ở Pháp đã lên tiếng phản
đối và đòi chấm dứt ngay việc sử dụng tù nhân làm việc khổ sai khai thác sở mỏ
tại Caledonie cũng như các nới khác trên Thế giới.
f.
Đến năm 1921, con tầu Xanh Phăng-xoa Xa-viê thực hiện chuyến tầu đầu tiên chở 550 người lao
động theo diện hợp đồng chính thức (engagés sous-contrat officiel) La
main-d'œuvre légale tonkinoise en Calédonie đến Nouméa.
Trong số này có 405 người dành cho NC và 145 người dành cho đồn điền De Béchade ở Tân đảo Nouvelles Hebrides. Từ đó, có giả thiết cho rằng: ở Nouméa người ta đã đặt cái
tên cho người lao động theo hợp đồng chính thức là “chân đăng” để phân biệt
với những người bị cưỡng bức lao động là phạm nhân mang án tù khổ sai Main-d'œuvre
pénale annamite et tonkinoise en Nouvelle Caledonie bị thuyên
chuyển từ Côn đảo sang lưu đầy cấm cố ở NC từ năm 1891 đang làm việc trong các
sở mỏ lúc bấy giờ.
g.
Nhận định về tuổi tác. Khi bị bắt tù, ít nhất tuổi của những
vị tiền bối này cũng khoảng trên dưới 30 gồm nhiều thành phần. Trong đó có tù
chính trị, trộm cướp, lừa đảo, giết người và các tội phạm khác. Thế thì tính đến năm 1921, sau 30 năm lưu đầy, số 800
tù nhân đến từ Côn đảo năm 1891, tuổi của họ cũng đã xấp xỉ trên dưới 60 cả rồi. Xin lưu ý là trong thời
gian 30 năm đó cũng đã có nhiều chuyến tầu khác tiếp tục chở tội phạm từ VN qua
Caledonie. Bởi vậy, sau phong trào bình dân phản đối mạnh mẽ, Bộ Thuộc địa đã
ngừng việc điều chuyển tù khổ sai. Chính
quyền Pháp tại địa phương đã phải tuyển dụng nhân công theo diện hợp đồng chính
thức để thay thế số tù khổ sai đã luống tuổi này.
Người da mầu New Hebrides bị bắt làm phu phen tại NC (Blackbirding)
h.
Chúng ta cũng nên lưu ý là người lao động nước ngoài theo
diện hợp đồng chính thức đầu tiên đến làm việc ở New Caledonia là người Nhật bản
và người Javanais. Ngoài ra cũng có một số dân da đen néo-hebridais bị cướng bức
sang Caledonie lao động theo diện “blackbirding”. Đồng thời, có
rất nhiều tù nhân di chuyển từ Pháp, Bắc phi đến và làm việc tại đây. Không rõ
luật lệ đối với tù nhân người Việt nam gốc Bắc và Trung kì ra sao. Riêng đối với
tù nhân người Pháp, họ được hưởng một đặc ân: sau 8 năm cải tạo và làm việc khổ
sai, số người có hạnh kiểm tốt đã được xóa án và cấp 2 ha đất hoang để canh tác
và làm lại cuộc đời. Những người này có quyền lấy vợ, sinh con cái. Nhưng tuyệt
đối không được phép ra khỏi đất nước Calédonie. Sau này, những người làm ăn tốt
có điều kiện kinh tế được phép bảo lãnh đưa gia đình từ Pháp qua sinh sống. Hiện
nay, thế hệ hậu duệ của những tù nhân trước đây đã trở thành doanh nhân tầm cớ,
chính trị gia tiêu biểu, làm lãnh đạo trong bộ máy chính quyền tại địa phương.
i. Ở Tân đảo xưa (New Hebrides/Vanuatu) thường dùng chữ phu
mộ mà người Tây họ gọi là cu-li (coolies) tức là phu khuân vác, người làm việc
phổ thông.
Chữ
nôm: 夫 phu* là làm tạp dịch, phu
phen. Còn chữ mộ theo nôm: 募 mộ* là tuyển mộ.
k. Năm 1919, đứng trước đòi hỏi và yêu cầu cấp bách của các điền chủ cũng như các doanh nghiệp địa phương, Ngài Guyon - Toàn quyền Pháp tại Thái bình dương – đã đạt được thỏa thuận với Chính phủ Đông dương quyền hạn tuyển mộ người lao động ngay tại Việt Nam.
k. Năm 1919, đứng trước đòi hỏi và yêu cầu cấp bách của các điền chủ cũng như các doanh nghiệp địa phương, Ngài Guyon - Toàn quyền Pháp tại Thái bình dương – đã đạt được thỏa thuận với Chính phủ Đông dương quyền hạn tuyển mộ người lao động ngay tại Việt Nam.
Xin kính chào
và chân thành cảm ơn quý vị và bà con đã xem và chía sẻ.
Chúc mọi người
dồi dào sức khỏe và niêm tin để cùng nhau vượt mọi khó khăn trong điều kiện và
hoàn cảnh phòng chống với
đại dịch
Covid-19 đang lan rộng hiện nay.
Xin mời quý
vị và bà con cùng tham khảo các bài báo được
trích trên mạng sau đây:
LA MAIN-D’ŒUVRE TONKINOISE EN MELANESIE.
(Le Journal des débats, 8 septembre 1890)
[…] Il ne faut pas se dissimuler que l'une des
difficultés sérieuses de ces entreprises, c'est la rareté de la main-d'œuvre,
et, à ce point de vue spécial, le concours de l'administration coloniale peut
permettre de vaincre bien des obstacles. Un premier pas vient d'être fait dans
cette voie par suite de l'introduction en Nouvelle-Calédonie d'un certain
nombre de condamnés annamites que M. de Greslan d'une part, et, d'autre
part, la Société du nickel ont été autorisés à faire venir d'Indochine. Il y
a, de ce chef, un premier contingent d'environ 1.000 travailleurs qui pourront
être suivis de plusieurs autres, si l'épreuve est jugée satisfaisante. On
pourrait ainsi suppléer à l'insuffisance des condamnés et des relégués de la
Nouvelle-Calédonie qui ne sont même pas en nombre voulu pour faire face aux
travaux publics. Quant aux condamnés arabes, ils sont plutôt une gêne qu'une
aide. L'impossibilité de les astreindre au travail, la surveillance constante
qu'il faut exercer et qui n'empêche pas de continuelles évasions, font que les
compagnies privées refusent de les accepter sur leurs chantiers. […]
(Theo báo Nghị
luận, đăng ngày 8/9/1890) Đại ý có thể hiểu như thế này:
Về việc sử dụng
lực lượng nhân công là tội phạm (Main d’oeuvre pénale) người Việt Bắc kì và
Trung kì tại Nouvelle Calédonie.
... Người ta
chẳng cần che giấu làm gì về những khó khăn chồng chất tại các xí nghiệp sở mỏ
lúc này, đó là sự khan hiếm nhân công trầm trọng, và theo cách nhìn nhận đặc biệt
đó, một biện pháp hữu hiệu của bộ máy hành chính thuộc địa có thể lựa chọn sẽ là
giải pháp vượt qua được thử thách lớn này. Bước đầu là việc tổ chức di chuyên một
số tội phạm người Việt thông qua thỏa thuận giữa ông Greslan và Công ty Nickel
cho phép nhập cư chuyến tầu đầu tiên với khoảng 1.000 người đáp ứng với tình thế
khó khăn lúc bấy giờ. Sau đó, nếu thuận buồm xuôi gió, có thể sẽ tổ chức thường
xuyên nhiều chuyến khác. Số tù nhân này sẽ bổ sung cho lực lượng nhân công ở đây.
Vì số phạm nhân sẵn có của địa phương không đảm đương nổi công việc chung của
thành phố. Còn những tù nhân người Ả-rập, họ chỉ là vật cản chứ chẳng giúp đỡ được
gì. Đối với những phạm nhân này, không những phải tăng thêm người canh gác ngăn
chặn việc họ chạy trôn mà năng suất lao động và ý thức của họ quá ư thấp kém. Bởi
vậy, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã từ chối không thể tiếp tục nhận họ làm việc
tại các công trường tại Calédonie...
Dépêches télégraphiques des
correspondants particuliers du Temps
(Le Temps, 3 mai 1891)
(Le Temps, 3 mai 1891)
Marseille, 2 mai. ………………… Parmi les soldats
rapatriés par le Yarra [des Messageries maritimes] se trouvaient un sergent et
quatorze hommes de l'infanterie de marine ayant escorté à bord du Chéribon [de
la Cie nationale de navigation (Borelli)] les 800 condamnés tonkinois et annamites envoyés de Poulo-Condor à Nouméa. Ces
derniers ont été bien accueillis en Calédonie et placés sans retard chez divers
industriels ou entrepreneurs. ———————
Theo công điện
của phóng viên báo Thời cuộc “Le Temps” ngày 3/5/1891. Đại ý công điện viết như
sau:
Marseille,
ngày 2/5... Trong số binh sĩ được hồi hương trên chuyến tầu Yarra của hãng vận
tải M.M. người ta thấy có một trung sĩ và
14 binh sĩ thuộc lực lượng lính thủy đánh bộ đang làm nhiệm vụ giải giáp 800 tội
phạm người Bắc và Trung kì trên con tầu Cheribon thuộc hãng vân tải quốc gia Borelli
đi từ Côn đảo về Noumea. Số tù nhân này đã được đón tiếp tử tế tại Tân
Caledonie, Họ được chuyển về khu cách ly và ít lâu sau đó đã được nhanh chóng phân
bổ về làm việc tại các cơ sở công nghiệp, sở mỏ và nhà máy tại địa phương.
AFFAIRES COLONIALES en Nouvelle-Calédonie (Le Temps, 12
mai 1891)
Le Chéribon, porteur d'un convoi de huit cents
immigrants annamites et tonkinois, est arrivé à Nouméa le 14 mars. Le voyage
s'est opéré dans d'excellentes conditions de temps et de mer, sauf pendant
quatre jours (du 6 au 10 mars), où le navire a subi un coup de vent violent à
quelque distance des côtes de Calédonie. L'ordre et la tranquillité n'ont pas
été troublés au cours du voyage. Enfin, l'état sanitaire a été aussi bon qu'il
pouvait l'être, et il ne s'est pas produit parmi les Annamites un seul cas de
cette nostalgie si redoutable chez les peuples d'Orient et qui les pousse à
toutes les extrémités. Il n'est survenu à bord que quatre décès, et tous dus à
une cause antérieure à l'embarquement. Les immigrants ont été placés
provisoirement au lazaret de l'îlot Freycinet.
1891. Le paquebot Cheribon
Báo “Le Temps” ngày 12/5/1891 đăng tải bài viết về Vấn đề Thuộc địa tại NC
800 người Bắc
và Trung kì nhập cư trên chuyến tầu Cheribon đã cập bên Nouméa ngày 14/3/1891.
Chuyến vượt đại dương của con tầu đã diễn ra trót lọt trong điều kiện vô cùng tốt
đẹp, trừ những ngày 6 và 10 con tầu đã phải đương đầu với sóng to gió lớn khi gần
tới hải phận của Tân Calédonie. Trật tự và sự yên tĩnh trên tầu không bị xáo trộn.
Điều kiện vệ sinh đã được bảo đảm ở mức độ tối đa. Đặc biệt là tinh thần của hành
khách trên tầu đã được duy trì và bảo đảm trong điều kiện lần đầu xa rời quê hương
của mình. Tuy vậy cũng có 4 ca tử vong do mắc bệnh trước lúc lên tầu. Những người
nhập cư đã được đưa về khu cách ly y tê tại đảo Freycinet.
1921. Le paquebot Saint François Xavier (renommé Gia long 1929)
Thông tin về
con tầu Saint Francois Xavier:
Con tầu được
hạ thủy năm 1918 tại nhà máy đóng tầu HK & Whampoa Hong Kong đăng kí quốc tịch
Na-uy với tên Hermelin của Cty Bruusgaard. Năm 1923, Cty Ballande (Cty Hàng hải
vùng nam Thái bình dương) dành cho việc chuyên chở những người di trú từ Việt
Nam đến Port Vila và Noumea. Con tầu này đã đổi tên là Saint Francois Xavier,
sau là Gia Long năm 1929. Sau đó, năm 1930 hãng M.M. đã mua lại con tầu này và
đổi tên là Dumont d’Urville. Công ty M.M. dùng tầu này để chuyên chở dừa khô giữa
các đảo nhỏ ở Tân đảo mang về tập kết ở Port Vila. Sau đó chuyển hàng sang tầu
La Perouse. Sau đó tầu Bucephale đã thay thế. Năm 1936, tầu Saint Francois
Xavier đã được bán lại cho một Cty Thụy điển với tên mới là Joan Moller cho đến
31/12/1941 con tầu bị đắm chìm ở Hong kong. Sau đó quân đội Nhật hoàng đã sửa
chữa làm phương tiện vận tải quân sự lấy tên là Gyoyu Maru. Nó đã bị tầu ngầm của
Hải quân Mỹ US Seahorse phóng ngư lôi đánh chìm giửa hải phận Đài loan và Phi
luật tân ngày 3/7/1944.
Lancé en 1918 à Hong Kong aux
HK & Whampoa dockyards, et lancé sous pavillon norvégien sous le nom
d'HERMELIN pour la compagnie Bruusgaard. Racheté en 1923 par la compagnie Ballande
(Compagnie navale de l'Océanie) pour les transports d'émigrants vers
Port Vila et Nouméa. Renommé SAINT FRANÇOIS XAVIER, puis GIALONG en 1929. Il
est racheté par les MM en août 1930 et baptisé DUMONT D'URVILLE. La compagnie
l'emploie au recueil du coprah dans les petites îles des Nouvelles Hébrides
pour le transporter à Port Vila où il sera secondairement embarqué sur le LAPEROUSE. Désarmé en 1933 et remplacé
par le BUCEPHALE, il sera vendu en 1936 à la
compagnie suédoise Moller, qui l'emploiera sur les côtes de Chine. Sa carrière
se continuera sous l'identité de JOAN MOLLER jusqu'au 31 décembre 1941 où il
sera sabordé à Hong Kong . Renfloué par les japonais qui le nomment GYOYU MARU,
il est torpillé le 3 juillet 1944 par le sous marin américain USS SEAHORSE (SS 304) entre Formose et Luzon.(1), (16) et (36)
La main-d'œuvre légale
tonkinoise en Calédonie et aux Nouvelles Hébrides H. C. [Henri Cucherousset]. (L’Éveil économique de
l’Indochine, 28 octobre 1921)
Les premiers cinq cent cinquante paysans tonkinois
recrutés sous-contrat cet été par M. Milliard, de la maison
Ballande, majorité pour la Nouvelle-Calédonie et le restant pour les Nouvelles-Hébrides sont arrivés le 25 août à Nouméa
après une excellente traversée. L'état sanitaire fut parfait grâce à la
vigilance de M. le docteur Lefèvre, médecin du Saint-François-Xavier, qui,
parlant très bien l'annamite, sut maintenir le moral aussi bien que le
physique. Un seul décès, une femme, qui mourut de la fièvre après quatre jours de
traversée. C'est un record pour un navire d'émigrants qui resta 24 jours en
mer. Les Annamites (dont 416 avaient leurs femmes avec eux) furent répartis par
petits groupes chez les divers colons français, à peu de distance les uns des
autres, et les familles catholiques à proximité des missions catholiques.
Chacun reçut un bon lopin de terre, de cette terre d'une prodigieuse fertilité
où fruits et légumes poussent presque sans culture. Le système de la semaine
anglaise leur laisse le samedi soir et le dimanche pour s'occuper de leur
propre champ. Tous ces braves gens paraissaient satisfaits et sans doute le
Saint-François-Xavier, qui doit partir dans quelques jours de Nouméa pour
arriver fin novembre à Haïphong, apportera-t-il aux familles de ces expatriés
une abondante correspondance...
Báo Kinh tế Đông dương Bừng tỉnh ngày 28/10/1921 đăng tải bài viết về “Lực lượng nhân công hợp
pháp người Bắc kì tại Nouvelle Caledonie và Nouvelles Hebrides”.
Sau chuyến
vượt biển dài ngày vô cùng tốt đẹp, 550 người nông dân Bắc kì đầu tiên được tuyển
mộ theo hợp đông lao động chính thức thông qua ông Milliard đại diện của Công
ty Ballande đã tời Noumea ngày 25/8 năm 1921 trên con tầu Saint Francois Xavier.
Số lớn ở lại Caledonie. Số còn lại dành cho Nouvelles Hebrides. Nhờ có sự chăm
sóc tận tâm của Ngài Lefèvre, một bác sĩ nói thông thạo tiếng Việt đã đảm bảo tình
hình sức khỏe của mọi người. Sau 24 ngày đêm lênh đênh trên biển, con tầu cập bến an toàn đã được công nhận là một kỉ lục
lúc bấy giờ. 416 người và gia đình của họ đã được nhanh chóng phân chia thành
nhóm và chuyển về làm việc tại các cơ sở sản xuất. Những người theo đạo thiên
chúa được ưu tiên nhận phần đất nhỏ trong khu vực xứ đạo để trồng rau và cây quả.
Đất ở đây mầu mỡ không cần bón phân cũng xanh tười mơn mởn. Theo luật lao động
của người Anh, số người này được phép nghỉ việc chiều thứ bẩy và ngày chủ nhật.
Người nào cũng tỏ vẻ hài lòng với cuộc sống mới ở đây. Và điều chắc chắn là con
tầu Saitn Francois Xavier này sẽ là con thoi đưa tin tức nóng hổi giữa hai bờ đại
dương.
En 1919, le
Gouverneur français du Pacifique, Guyon, allant au-devant des demandes des
colons et des maisons de commerce locales, obtint du Gouvernement Général de l’Indochine
le droit de recruter localement des travailleurs vietnamiens. En 1920, Lançon,
colon d’Epi, alla de sa propre initiative recruter 30 familles de travailleurs
indochinois. Le recrutement fut par la suite organisé de façon officielle ; un
bureau de recrutement fut ouvert à Hanoï, une réglementation instituée et les
convois d’acheminement furent pris en charge par la maison de commerce
calédonienne Ballande:
Đại ý văn bản này như sau:
Năm 1919, đứng
trước đòi hỏi và yêu cầu cấp bách của các điền chủ cũng như các doanh nghiệp địa
phương, Ngài Guyon - Toàn quyền Pháp tại Thái bình dương – đã đạt được thỏa thuận với Chính phủ Đông dương
quyền hạn tuyển mộ người lao động ngay tại Việt Nam.
Năm 1920, điền
chủ Lançon đảo Ê-pi, đã tự mình thực hiên việc tuyển mộ nhân công người Đông dương
lần đầu tiên cho chính đồn điền của mình. Sau đó việc tuyển mộ lao động đã được
công khai và trụ sở được thiết lập ngay tại Hà nội, mọi điều luật đã thành văn
bản và việc chuyên chở nhân công đã được doanh nghiệp Ballande tại Calédonie
bao thầu thực hiện.
Bản hợp đồng của người lao động VN với điền chủ Lançon Epi Tân đảo.